MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC THUỐC KHÁNG NẤM NHÓM TRIAZOLE
Các triazole là một nhóm thuốc kháng nấm quan trọng và thường được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm nấm toàn thân.
Các triazole là một nhóm thuốc kháng nấm quan trọng và thường được sử dụng trong điều trị các bệnh nhiễm nấm toàn thân.
Phân loại các thuốc kháng nấm nhóm Triazole
1/ Các thuốc kháng nấm nhóm triazole như fluconazole, itraconazole, voriconazole và posaconazole được hấp thu tốt sau khi uống. Chúng có nhiều đặc điểm chung, nhưng cũng mang vài đặc trưng riêng biệt:
- Fluconazole và voriconazole đạt nồng độ huyết tương cao hơn itraconazole và thâm nhập được vào dịch não tủy ở nồng độ điều trị.
- Itraconazole, voriconazole và posaconazole cho thấy hoạt tính mạnh hơn fluconazole đối với Aspergillus spp., Can. krusei và Can. glabrata, là những loài nấm men có tần suất mắc phải gia tăng ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch và thường đề kháng với fluconazole.
- Fluconazole, itraconazole, và posaconazole có thời gian bán thải dài (20 – 35 giờ), thích hợp cho chế độ dùng ngày 1 lần.
- Fluconazole trải qua sự chuyển hóa và gắn kết protein ít hơn các triazole khác, và ít gây ra tác dụng phụ hơn.
2/ Các triazole được dùng trong nhiều thể nhiễm nấm toàn thân. Fluconazole được sử dụng rộng rãi trong điều trị nhiễm Candida toàn thân và viêm màng não do Cryptococcus, bởi vì khả năng thâm nhập tốt vào dịch não tủy. Thuốc cũng được sử dụng rộng rãi để dự phòng cho bệnh nhân dễ bị nhiễm nẫm toàn thân.
3/ Itraconazole dần bị thay thể bởi các thuốc kháng nấm mới hơn như voriconazole và posaconazole, mặc dù nó vẫn được xem xét lựa chọn cho nhiễm nấm lưỡng hình địa phương (ví dụ bệnh nấm Histoplasma, bệnh nấm Coccidiodes, bệnh nấm Blastomyces).
4/ Voriconazole thích hợp hơn trong điều trị nhiễm Aspergillus spp. và là thuốc dự phòng cho nhiễm nấm men kháng fluconazole.
5/ Fluconazole có thể được dùng trong điều trị nhiễm nấm Candida bề mặt nếu việc dùng thuốc đường uống được xem là cần thiết hoặc có thể dùng dạng thuốc đặt âm đạo.
6/ Tác dụng phụ không thường gặp với các triazole như với amphotericin B, nhưng độc tính trên gan đe dọa tính mạng có thể xảy ra khi dùng kéo dài. Các tác dụng phụ khác là buồn nôn và nôn.
7/ Tương tác thuốc có thể xảy ra giữa triazole và các nhóm thuốc khác, vì chúng ức chế sự chuyển hóa ở gan của nhiều thuốc, bao gồm cyclosporin, warfarin, thuốc chống động kinh, và các thuốc hạ glucose máu đường uống.
Tham khảo: Peter Davey et al. Antimicrobial Chemotherapy, 7th edition (2015), page 78.
- Fluconazole và voriconazole đạt nồng độ huyết tương cao hơn itraconazole và thâm nhập được vào dịch não tủy ở nồng độ điều trị.
- Itraconazole, voriconazole và posaconazole cho thấy hoạt tính mạnh hơn fluconazole đối với Aspergillus spp., Can. krusei và Can. glabrata, là những loài nấm men có tần suất mắc phải gia tăng ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch và thường đề kháng với fluconazole.
- Fluconazole, itraconazole, và posaconazole có thời gian bán thải dài (20 – 35 giờ), thích hợp cho chế độ dùng ngày 1 lần.
- Fluconazole trải qua sự chuyển hóa và gắn kết protein ít hơn các triazole khác, và ít gây ra tác dụng phụ hơn.
2/ Các triazole được dùng trong nhiều thể nhiễm nấm toàn thân. Fluconazole được sử dụng rộng rãi trong điều trị nhiễm Candida toàn thân và viêm màng não do Cryptococcus, bởi vì khả năng thâm nhập tốt vào dịch não tủy. Thuốc cũng được sử dụng rộng rãi để dự phòng cho bệnh nhân dễ bị nhiễm nẫm toàn thân.
3/ Itraconazole dần bị thay thể bởi các thuốc kháng nấm mới hơn như voriconazole và posaconazole, mặc dù nó vẫn được xem xét lựa chọn cho nhiễm nấm lưỡng hình địa phương (ví dụ bệnh nấm Histoplasma, bệnh nấm Coccidiodes, bệnh nấm Blastomyces).
4/ Voriconazole thích hợp hơn trong điều trị nhiễm Aspergillus spp. và là thuốc dự phòng cho nhiễm nấm men kháng fluconazole.
5/ Fluconazole có thể được dùng trong điều trị nhiễm nấm Candida bề mặt nếu việc dùng thuốc đường uống được xem là cần thiết hoặc có thể dùng dạng thuốc đặt âm đạo.
6/ Tác dụng phụ không thường gặp với các triazole như với amphotericin B, nhưng độc tính trên gan đe dọa tính mạng có thể xảy ra khi dùng kéo dài. Các tác dụng phụ khác là buồn nôn và nôn.
7/ Tương tác thuốc có thể xảy ra giữa triazole và các nhóm thuốc khác, vì chúng ức chế sự chuyển hóa ở gan của nhiều thuốc, bao gồm cyclosporin, warfarin, thuốc chống động kinh, và các thuốc hạ glucose máu đường uống.
Tham khảo: Peter Davey et al. Antimicrobial Chemotherapy, 7th edition (2015), page 78.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét