CÁC RETINOIDS VÀ THAI KỲ
Các retinoid đường uống là các dẫn xuất tổng hợp của vitamin A, được phát triển để điều trị một số bệnh da liễu thường gặp. Các thuốc khác nhau về một số đặc tính dược lý và chỉ định được chấp thuận:
+ Isotretinoin (13-cis-retinoic acid) được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá nặng không đáp ứng với các điều trị khác.
+ Alitretinoin (9-cis-retinoic acid) được sử dụng trong điều trị eczema bàn tay mạn tính.
+ Acitretin, một retinoid thế hệ 2, được sử dụng trong điều trị các dạng vảy nến nặng.
Tất cả các dẫn chất retinoid đều ẩn chứa nguy cơ gây quái thai cao, do đó đều chống chỉ định tuyệt đối trong thai kì và những phụ nữ có ý định mang thai (FDA phân loại nguy cơ với acitretin và isotretinoin là X, alitretinoin là D). Cần loại trừ khả năng bệnh nhân đang mang thai trong thời gian 2 tuần trước khi bắt đầu điều trị.
Các biện pháp tránh thai có hiệu quả cao cần được áp dụng trong thời gian 1 tháng trước điều trị, trong quá trình điều trị và ít nhất 1 tháng sau khi ngừng điều trị. Riêng đối với acitretin, Hội Bác sĩ da liễu Anh Quốc (BAD), FDA và Dược thư Anh (BNF) đều khuyến cáo không nên có thai trong thời gian ít nhất 3 năm sau khi ngừng điều trị, vì thuốc tích lũy lâu dài trong cơ thể.
Do tính thân dầu, các dẫn xuất retinoid đều bài tiết vào sữa mẹ, và do đó không nên dùng thuốc ở phụ nữ đang cho con bú.
Ở nam giới, liệu pháp retinoid không cho thấy gây ra những bất thường trong sự sinh tinh trùng, hình thái cũng như khả năng di động của tinh trùng. Tuy nhiên, đàn ông đang muốn có con thường được khuyến cáo tránh điều trị với các retinoid toàn thân.
Tham khảo:
1. Sarah H. Wakelin, Howard I. Maibach, Clive B. Archer (2015). Handbook of Systemic Drug Treatment in Dermatology 2nd ed, CRC Press.
2. Lowell A. Goldsmith et al (2012). Fitzpatrick's Dermatology in General Medicine 8th ed, The McGraw-Hill Companies. P.2759-2766.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét